Thứ Sáu, 20 tháng 6, 2014

Hà Nội: Chùa Bà Đá - Linh Quang tự

Chùa Bà Đá hiện ở số 3 phố Nhà Thờ, phường Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Chùa có tên chữ là Linh Quang Tự.

 Đời Lê Thánh Tông (1460-1497), chùa thuộc thôn Tự Pháp, tổng Tiền Túc( sau đổi là tổng Thuận Mỹ), huyện Thọ Xương. Năm Tự Đức thứ 3(1850) chùa thuộc thôn Tự Pháp, tổng Thuận Mỹ, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Nội.

Chùa Bà Đá

 Truyền thuyết dân gian kể rằng : “…Chùa Linh Quang tục gọi là chùa Bà Đá, tại thôn Tự Pháp, huyện Thọ Xương, chùa xây vào triều Lý. Triều Lê , chúa Trịnh xây thành ở gần chùa, thành cứ xây xong rồi lại đổ. Sau đó thấy một tượng đá giống như người đem phụng thờ ở trước chùa, rất linh thiêng, cầu gì là ứng nghiệm luôn, nên gọi là chùa Bà Đá".

 Chùa Bà Đá có khởi nguồn tạo dựng từ rất sớm, vốn là trường sở của phái Lâm Tế trong đạo Phật.

 Sách “Thăng Long cổ tích khảo” có viết về lịch sử của chùa:…Chùa xây vào triều Lý, đến binh biến thời Tây Sơn, chùa bị huỷ hoại. Bấy giờ, quan sức cho diệt trừ cỏ dại, người trong thôn thu dọn đất đá lại thấy pho tượng đá, dân làng trong thôn bèn dựng tạm một gian chùa để thờ phụng. Năm Canh Tuất, triều Tự Đức thứ 3 (1850),một vị tăng tự là Giác Vượng đến trụ trì chùa này, xây dựng và mở mang thêm cảnh chùa.

 Phạm Quý Thích triều Lê đã có thơ:

Đất này đâu kỳ vĩ
Am thiêng tiếng xưa nay
Lầu cao dư thoáng đãng
Phúc địa gác tầng mây
Hai chữ ghi dấu tích
Bia xưa công dựng xây...
Không chê nơi đất hẹp
Lặng lẽ ly khôn cùng
Lạnh lẽo lầu cô quạnh
Trơ vơ khóm cúc ngồng.

 Năm Mậu Tuất, ThànhThái 10 (1898) trùng tu chính điện, các dãy nhà Tổ, tăng xá ở chùa Bà Đá. Ngày mùng 5 tháng 1 năm 1946, Bác Hồ đã đến thăm chùa Bà Đá và nói chuyện với các thượng toạ, tăng ni, phật tử. Chùa Bà Đá hiện là trụ sở của thành hội Phật giáo Hà Nội. Trải qua thời gian dài tồn tại, ngôi chùa đã được trùng tu, sửa chữa nhiều lần vào thời Nguyễn và những năm gần đây.

 Các công trình kiến trúc của chùa được bố cục theo kiểu ‘Nội Đinh ngoại Quốc, các toà nhà được gắn kết với nhau thành một thể thống nhất. Từ ngoài vào gồm các công trình sau: Cổng chùa một kiến trúc nhỏ hẹp dẫn vào sân chùa, phía trong sân chùa là toà Tam bảo, nhà thờ Tổ, thờ Mẫu và hai dãy tả hữu hành lang,khu nhà bếp, toà nhà Pháp bảo tạng.

 Nhà tiền đường ba gian, hai chái xây kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta. Bộ khung đỡ mái gồm bốn bộ vì kèo được làm kiểu giá chiêng, hạ kẻ bẩy, phía trước mở 7 cửa bức bàn kiểu thượng song- hạ bản

 Toà trung đường nối tiền đường và thượng điện có kết cấu tương tự toà tiền đường. Thượng điện gồm 5 gian, một chái xây chạy dọc về phía sau. Bộ khung đỡ mái gồm 6 bộ vì làm kiểu” giá chiêng hạ kẻ” mái lợp ngói ta.

Hai nhà tả hữu hành lang, mỗi toà 9 gian, xây kiểu tường hồi bít đốc, kết cấu kiểu chồng rường và quá giang.

Nhà thờ Tổ và thờ Mẫu có 5 gian xây kiểu tường hồi bắt đốc hai chái , ở phía sau thượng điện,xây chạy ngang, hai hồi nhà nối tiếp với hai nhà tả hữu hành lang tạo thành khối kiến trúc khép kín.

 Hiện nay chùa còn 6 ngôi tháp mộ được xây ở hai hồi toà thượng điện và phía trước toà tiền đường. Toà nhà Tháp bảo tạng ở phía sau hành lang bên trái chùa, nhà xây hai tầng, tầng trên có máí lợp ngói tây.

 Bên trái sân chùa là dãy nhà giảng đường xây hai tầng, mái lợp giả ngói, có nhiều phòng, đó là một công trình kiến trúc hiện đại mới được xây dựng năm 1997 để mở rộng phòng học của trường hạ.

 Chùa còn lưu giữ được nhiều di vật đa dạng về loại hình, chất liệu như : 8 tấm bia đá mang niên đại thời Nguyễn, trong đó một tấm bia có niên hiệu Tự Đức3 (1850) ghi sự tích và việc trùng tu sửa chữa các công trình kiến trúc của chùa. Hai quả chuông đồng đúc năm1873 và năm 1881, một khánh đồng niên hiệu  Thiệu Trị 32 (1842). Hệ thống tượng tròn gồm 29 pho của các tượng Phật và Bồ Tát, tượng Tổ.  Một pho tượng Bà Đá tạc bằng gỗ giống như tượng Thánh Mẫu. Những pho tượng của chùa được tạo tác công phu và thếp vàng lộng lẫy, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 19 đầu thế kỷ thứ 20.

 Cùng với những di vật nêu trên, chùa còn lưu giữ 19 đôi câu đối sơn son, 17 bức hoành phi, 10 tấm nghi môn chạm rồng và hoa lá, hai cuốn thư chép thơ, 4 bức châm chép thơ sơn son.

 Chùa Bà Đá là di tích có giá trị nổi tiếng của thủ đô Hà Nội, vốn là trường sở của phái Lâm Tế trong đạo Phật, hiện nay là trụ sở của Thành hội Phật giáo Hà Nội. Một di tích có giá trị kiến trúc nghệ thuật khá tiêu biểu của thế kỷ thứ 19 được trân trọng, giữ gìn và bảo vệ.

                                                                                             Nguyệt Hằng